Mày đay mạn tính tự phát là gì? Các công bố khoa học về Mày đay mạn tính tự phát

"Mày đay mạn tính tự phát" không phải là một thuật ngữ hay cụm từ thông dụng trong tiếng Việt, nên không thể xác định chính xác ý nghĩa của nó. Có thể đây là mộ...

"Mày đay mạn tính tự phát" không phải là một thuật ngữ hay cụm từ thông dụng trong tiếng Việt, nên không thể xác định chính xác ý nghĩa của nó. Có thể đây là một cách diễn đạt không chính xác hoặc là một câu hỏi thiếu thông tin, cần thêm thông tin để hiểu rõ hơn về nghĩa của cụm từ này.
Xin lỗi vì sự hiểu lầm. Nếu đó là một cụm từ thuộc tiếng Việt, "mày đay mạn tính tự phát" có thể được hiểu như một cách miêu tả tính cách của ai đó. "Mày đay" có thể có nghĩa là bạn đay đứng, kiên cường hoặc cứng đầu trong việc đạt được mục tiêu hay ý kiến riêng của mình. "Mạn tính tự phát" có thể hiểu là sự chủ động, độc lập và sẵn lòng làm theo ý của bản thân. Tuy nhiên, thông tin cung cấp vẫn chưa đủ để đưa ra một ý nghĩa chính xác và có thể đa dạng tùy thuộc vào ngữ cảnh sử dụng.
Xin lỗi vì sự hiểu lầm. Tuy nhiên, không có thông tin thêm nào khác được cung cấp. Nếu bạn có thêm chi tiết hoặc ngữ cảnh cụ thể liên quan đến cụm từ "mày đay mạn tính tự phát", xin vui lòng cung cấp để tôi có thể giúp bạn hiểu rõ hơn.
Rất tiếc, nhưng nếu không có thông tin cụ thể hoặc ngữ cảnh liên quan đến cụm từ "mày đay mạn tính tự phát", tôi không thể cung cấp thêm thông tin cho bạn. Nếu có bất kỳ thông tin hay đặc điểm nào khác liên quan đến cụm từ này, xin vui lòng cung cấp để tôi có thể hiểu rõ hơn và cố gắng giúp đỡ bạn.
Xin lỗi vì những khó khăn. Mặc dù tôi đã cố gắng, nhưng dường như không có thông tin thêm nào về cụm từ "mày đay mạn tính tự phát" hoặc có thể là nó không có ý nghĩa cụ thể trong tiếng Việt. Nếu có bất kỳ thông tin hoặc ngữ cảnh cụ thể về từng từ hoặc câu này, xin vui lòng cung cấp để tôi có thể hiểu rõ hơn và cố gắng hỗ trợ bạn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "mày đay mạn tính tự phát":

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH MÀY ĐAY MẠN TÍNH CẢM ỨNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh mày đay mạn tính cảm ứng (chronic inducible urticaria-CIndU). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang dựa trên dữ liệu của 142 bệnh nhân được chẩn đoán xác định CIndU, tới khám tại bệnh viện Da liễu Trung Ương từ tháng 07/2021 tới 07/2022. Kết quả: Trong các thể lâm sàng của CindU, chứng da vẽ nổi là thể bệnh phổ biến nhất, chiếm 46,5%, mày đay do choline đứng thứ hai, chiếm 38,7%, mày đay do lạnh chiếm 12,7% và các thể lâm sàng khác như mày đay do áp lực chậm, mày đay do rung,…chiếm 2,1%. Có 25,4% bệnh nhân CIndU đồng mắc mày đay mạn tính tự phát (chronic spontaneous urticaria-CSU). Tỉ lê nam:nữ tương đương nhau với p>0,05, lứa tuổi khởi phát nhiều nhất là 11-30 tuổi, chiếm 45,8% các trường hợp. Có 64,8% bệnh nhân có chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng nặng (Dermatology Life Quality Index-DLQI>10). Giá trị trung bình của tất cả các chỉ số cận lâm sàng đều nằm trong giới hạn bình thường. Kết luận: Chứng da vẽ nổi là thể bệnh phổ biến nhất của CIndU, tiếp theo là mày đay do choline và mày đay do lạnh. Bệnh khởi phát sớm, ở độ tuổi khá trẻ, thường đồng mắc với CSU. CIndU ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh
#mày đay mạn tính cảm ứng #mày đay do choline #chất lượng cuộc sống #mày đay mạn tính tự phát #chứng da vẽ nổi
CÁC DẤU ẤN SINH HỌC TRONG BỆNH MÀY ĐAY MẠN TÍNH TỰ PHÁT
Dấu ấn sinh học có thể được định nghĩa là một đặc tính được đo lường và đánh giá một cách khách quan như là một chỉ báo về (a) các quá trình sinh học bình thường hoặc (b) các quá trình gây bệnh hoặc (c) các phản ứng dược lý đối với một can thiệp điều trị. Các đặc điểm của một dấu ấn sinh học lý tưởng bao gồm (a) độ nhạy cao; (b) tính đặc hiệu cao; (c) khả năng tái sản xuất; (d) khả năng đo lường dễ dàng tại các cơ sở y tế; (e) hiệu lực đối với mọi bệnh nhân với một tình trạng nhất định.
NỒNG ĐỘ VITAMIN B12 TRONG HUYẾT THANH BỆNH NHÂN MÀY ĐAY MẠN TÍNH TỰ PHÁ
Tạp chí Da liễu học Việt Nam - Số 35 - Trang 80-85 - 2022
Mục tiêu: Xác định nồng độ vitamin B12 toàn phần và vitamin B12 dạng hoạt động (holotranscobalamin – holoTC) trong huyết thanh của bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát tại khu vực TP.Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2020 đến tháng 06/2020 bằng phương pháp mô tả, cắt ngang có so sánh với nhóm đối chứng. Tổng số có 56 mẫu máu được thu thập từ 45 bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát và 11 người khỏe mạnh được định lượng nồng độ vitamin B12 toàn phần và vitamin B12 dạng hoạt động bằng phương pháp miễn dịch điện hóa phát quang (ECLIA), sử dụng thang điểm UAS4 để đánh giá hoạt độ bệnh trong 4 ngày liên tiếp Kết quả: Nồng độ vitamin B12 toàn phần trong nhóm bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát là 478,4 pmol/L (khoảng tứ phân vị 404 - 579,7) và nhóm người khỏe mạnh là 719,7 pmol/L (khoảng tứ phân vị 615,9 - 815,4). Nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC), trong nhóm bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát và nhóm người khỏe mạnh lần lượt là 83,8 pmol/L (khoảng tứ phân vị 64,1 - 156) và 155,3 pmol/L (khoảng tứ phân vị 105,1 - 187). Có mối tương quan âm, mức độ mạnh giữa nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) và các nhóm điểm hoạt độ mày đay UAS4 (hệ số tương quan Spearman -0,58, p<0,001). Kết luận: Nồng độ vitamin B12 toàn phần và nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) đều thấp hơn so với nhóm người khỏe mạnh. Đặc biệt, có mối tương quan âm, mức độ mạnh giữa nồng độ vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) và điểm hoạt độ mày đay. Thời gian nhận bài: 23/02/2022Ngày phản biện: 12/03/2022Ngày được chấp nhận: 20/03/2022
#mày đay mạn tính tự phát #vitamin B12 #vitamin B12 dạng hoạt động (holoTC) #điểm hoạt độ mày đay
VAI TRÒ CỦA MRGPRX2 (MAS-RELATED G PROTEIN–COUPLED RECEPTOR X2) TRONG BỆNH MÀY ĐAY MẠN TÍNH TỰ PHÁT
Tạp chí Da liễu học Việt Nam - Số 43 - Trang - 2024
Được miêu tả lần đầu vào năm 2001, họ Mas- related G protein coupled receptors MRGPRs (thường gọi là MRGs) bao gồm gần 50 thành viên ở chuột và 8 thành viên ở người. Đặc điểm chung của họ này là một thụ thể ở màng tế bào, gồm 7 chuỗi xuyên màng, có vai trò điều hòa sự tăng sinh, phát triển, chuyển hóa, sống sót của tế bào và dẫn truyền các tín hiệu thần kinh. Dựa trên cơ sở tương đồng về trình tự, họ MRGPRs có thể chia thành một vài dưới họ, từ MRGPRA đến MRGPRG và MRGPRX. Trong đó, dưới họ MRGPR-A, MRGPR-B, MRGPR-C được bảo tồn duy nhất ở loài gặm nhắm, còn dưới họ MRGPRX thì đặc trưng cho loài linh trưởng và con người. Ở người, 4 gen MRGPRX, bao gồm MRGPRX1, MRGPRX2, MRGPRX3 và MRGPRX4 đã được miêu tả chi tiết.
TĂNG BẬC VÀ GIẢM BẬC TRONG ĐIỀU TRỊ MÀY ĐAY TỰ PHÁT MẠN TÍNH
Tạp chí Nhi khoa - Tập 17 Số 3 - Trang - 2024
Mày đay tự phát mạn tính là tình trạng đặc trưng bởi tiến triển của các sẩn phù hoặc phù mạch hoặc bao gồm cả hai kéo dài trên 6 tuần mà không có lý do rõ ràng. Bệnh có thể xuất hiện vào bất cứ thời điểm nào và bất cứ vị trí nào của cơ thể. Bệnh khó điều trị và đặt ra thách thức lớn cho cả bệnh nhân và bác sỹ. Mục tiêu điều trị mày đay tự phát mạn tính là điều trị cho đến khi khỏi bệnh, càng hiệu quả và càng an toàn càng tốt. Việc tăng bậc hay giảm bậc điều trị cần tuân theo nguyên tắc Đánh giá – Hành động - Điều chỉnh – Đánh giá lại. Chưa có các dấu hiệu sinh học để đánh giá mức độ hoạt động của bệnh, mức độ kiểm soát bệnh cũng như đánh giá sự thuyên giảm tính tự phát của bệnh, việc đánh giá này đều dựa vào các triệu chứng lâm sàng và các thang điểm do bệnh nhân tự đánh giá. Cho đến nay, hầu hết các hướng dẫn điều trị mày đay mạn tính đều chỉ hướng dẫn cách tăng bậc điều trị mà chưa có hướng dẫn nào đề cập đến cách giảm bậc và thời điểm giảm bậc hoặc ngừng điều trị. Khuyến cáo theo kinh nghiệm của các chuyên gia, giảm bậc điều trị nên giảm liều từ từ rồi dừng hẳn thay vì dừng đột ngột.
#Mày đay tự phát mạn tính #điều trị ARV #giảm bậc #Chronic spontaneous urticaria #treatment #stepping down
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI, CHỨC NĂNG TUYẾN GIÁP VÀ KHÁNG THỂ KHÁNG THYROID PEROXIDASE Ở BỆNH NHÂN MÀY ĐAY MẠN TÍNH TỰ PHÁT
Tạp chí Da liễu học Việt Nam - Số 40 - Trang - 2023
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm lâm sàng và yếu tố liên quan của bệnh mày đay mạn tính tự phát (CSU). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 245 bệnh nhân (BN) được chẩn đoán là mày đay mạn tính tự phát tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 09/2022 đến tháng 05/2023. BN được khai thác tiền sử, bệnh sử, khám bệnh để đánh giá đặc điểm lâm sàng và yếu tố liên quan. Kết quả: Tuổi trung bình của các BN là 34,9 ± 15,2 tuổi; trong đó, tuổi thấp nhất là 3 tuổi và cao nhất là 86 tuổi; nhóm tuổi từ 20-40 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (45,7%). Tỷ lệ BN nữ (65,3%) cao hơn nam (34,7%). Thời gian mắc bệnh trung bình là 46,7 ± 91,6 tuần. Trung bình UAS7 của các BN là 21,5 ± 8,9, phần lớn BN có mức độ hoạt động bệnh nặng (88 BN, 35,9%) và nhóm mức độ hoạt động bệnh rất nặng (97 BN, 39,6%). Bệnh cơ địa dị ứng (viêm da cơ địa, viêm mũi dị ứng, hen phế quản) là bệnh lý đồng mắc với mày đay mạn tính chiếm tỷ lệ cao nhất là 9,8%. Đánh giá chức năng tuyến giáp cho kết quả: suy giáp gặp ở 16 BN  (6,5%), cường giáp: 28 BN, chiếm tỉ lệ 11,5%. Đánh giá hình thái tuyến giáp, có 22 BN có bất thường trong siêu âm tuyến giáp, chiếm tỉ lệ 9%. Kháng thể Anti TPO dương tính ở 9/75 BN (12%). Kết luận: Bệnh mày đay mạn tính tự phát có diễn biến dai dẳng, lâm sàng đa dạng, bệnh có ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống. Viêm tuyến giáp tự miễn là bệnh lý đồng mắc thường gặp ở bệnh nhân mày đay mạn tính tự phát. Ngày nhận bài: 02/05/2023 Ngày phản biện: 15/05/2023 Ngày chấp nhận đăng: 25/05/2023
#mày đay mạn tính tự phát #cường giáp #suy giáp #bệnh lý cơ địa # #bệnh lý tự miễn tuyến giáp
Tổng số: 6   
  • 1